Các nhà khoa học đã biết đến coronavirus ở người từ những năm 1960. Nhưng hiếm khi nhóm virus này được công nhận rộng rãi hơn trong nửa thế kỷ qua. Trong bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu lịch sử tóm tắt của họ Coronavirus.
Lịch sử tóm tắt về họ Coronavirus
Một ví dụ là vào năm 2003, khi virus coronavirus gây hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS-CoV) gây ra sự bùng phát của bệnh hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS) ở Trung Quốc đại lục và Hồng Kông.
Một vụ khác là vào năm 2012, khi virus coronavirus gây hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS-CoV) dẫn đến bùng phát hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS) ở Ả Rập Xê Út, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Hàn Quốc, cùng các quốc gia khác.
Trong cả hai trường hợp, coronavirus đều mới đối với khoa học. Đáng mừng là cả hai đợt bùng phát đều được kiềm chế nhờ sự kết hợp của sự can thiệp của con người và các hoàn cảnh tự nhiên vẫn chưa được biết đến.
Vào năm 2020, coronavirus đã trở thành một cái tên phổ biến trên toàn thế giới. Hầu hết mọi người cho đến nay đã nghe nói về coronavirus-2 hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS-CoV-2), hoặc COVID-19. Nhưng một số người có thể không biết rằng SARS-CoV-2 thuộc một họ virus. Và một nỗi lo sợ rằng các thành viên của họ Coronavirus đang mở rộng dần?
Các nhà khoa học biết rất nhiều về coronavirus ở người. Nhưng chúng tôi không biết tất cả. Và có khả năng là các nhà khoa học đã không xác định được đại dịch coronavirus vào thế kỷ 19. Phần giới thiệu ngắn gọn này sẽ xem xét toàn bộ quá trình phát hiện ra họ Coronavirus và những điểm quan trọng mà chúng ta có thể đã bỏ qua. Những bí ẩn đó có thể chứa đựng nhiều điều để dạy các nhà khoa học về COVID-19 và phản ứng miễn dịch của con người.
Mối quan hệ gia đình
Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus (ICTV Taxonomy) đã phê duyệt việc đặt tên cho hơn 40 loại coronavirus. Phần lớn những bệnh này lây nhiễm cho động vật.
Sự bùng phát COVID-19 đã nâng số lượng coronavirus được xác định lây nhiễm sang người lên 7 loài.
Bốn trong số này (hCoV-NL63, hCoV-229E, hCoV-OC43, HKU1) là do thu được từ các bệnh nhân trong cộng đồng và đã lưu hành liên tục trong đời sống của chúng ta một thời gian rất dài.
Ba loại khác – SARS-CoV, MERS-CoV và SARS-CoV-2 – dường như đã có sự gia tăng trong cộng đồng thời gian gần đây.
Điều đáng lo ngại là cả ba chủng này đều dẫn đến tỷ lệ tử vong cao.
Tất cả coronavirus đều có nguồn gốc từ động vật. Chúng bắt đầu ở động vật và sau đó, sau khi đột biến, tái tổ hợp và thích nghi, có thể được truyền sang người.
Nhiều coronavirus động vật gây ra bệnh nhiễm trùng môi trường lâu dài hoặc dai dẳng: chúng lây nhiễm cho động vật ở một vùng cụ thể hoặc trong một mùa cụ thể. Đồng thời, những coronavirus động vật này đã cùng tiến hóa và thích nghi với vật chủ trong hồ chứa của chúng trong một thời gian rất dài. Vì lý do này, các coronavirus gây bệnh từ động vật thường không gây ra các triệu chứng ở vật chủ trong hồ chứa của chúng. Ngay cả khi có, các triệu chứng rất nhẹ.
Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là thời gian nhiễm coronavirus ở động vật kéo dài – cùng với tỷ lệ tái tổ hợp cao với các vi rút khác cũng như tỷ lệ đột biến cao – làm tăng xác suất một đột biến coronavirus phát triển khả năng nhảy sang vật chủ khác.
Có suy đoán rằng khi một coronavirus động vật xâm nhập vào vật chủ mới này, mức độ nghiêm trọng của bệnh sẽ tăng lên đáng kể khi bắt đầu một vòng thích nghi mới giữa coronavirus và vật chủ mới. Người ta suy đoán – nhưng chưa được chứng minh – rằng chỉ sau một thời gian rất dài thích nghi và đồng tiến hóa, vật chủ mới có thể thích nghi đủ với vi rút để có thể chống lại nó hiệu quả hơn. Điều này sẽ dẫn đến các triệu chứng nhẹ hơn.
Bảy chủng coronavirus ở người đã được báo cáo là có các loài động vật có vú trong nước và hoang dã làm vật chủ trung gian và khuếch đại. Điều này có nghĩa là chúng đã chuyển đổi qua người thông qua một số loài động vật khác sau khi có nguồn gốc có thể là dơi và động vật gặm nhấm.
Bốn coronavirus ở người do cộng đồng mắc phải – nghĩa là chúng mắc phải hoặc phát sinh trong dân số nói chung – thường gây ra các triệu chứng giống cảm lạnh nhẹ ở người. Hai trong số đó, hCoV-OC43 và hCoV-229E, là nguyên nhân gây ra từ 10% đến 30% tổng số ca cảm cúm thông thường kể từ khoảng những năm 1960.
Mặc dù những coronavirus này gây nhiễm trùng quanh năm, nhưng số ca nhiễm trùng vẫn tăng đột biến trong những tháng mùa đông và đầu mùa xuân. Đối với các vi rút đường hô hấp khác, chẳng hạn như vi rút cúm, lý do của điều này không hoàn toàn rõ ràng. Nhóm coronavirus ở người này thường lây nhiễm cho tất cả các nhóm tuổi; nhiều lần tái nhiễm là phổ biến trong suốt cuộc đời của con người.
Những bí mật chúng ta có thể đã bỏ lỡ
Xác định niên đại phân tử (Molecular dating) được sử dụng trong khoa học sinh học để ước tính tuổi của các sự kiện tiến hóa. Nó thường được sử dụng để điều tra nguồn gốc của dịch bệnh do vi rút gây ra.
Vào năm 2005, một nhóm nghiên cứu từ Bỉ đã công nhận rằng tổ tiên của hCoV-OC43 – một trong những coronavirus ở người hiện nay gây ra cảm lạnh thông thường – đã truyền từ gia súc sang người, dẫn đến những gì họ mô tả là:
a pandemic of respiratory disease recorded around 1890 in human history.
Các nhà nghiên cứu lập luận rằng vào nửa sau của thế kỷ 19, một loại bệnh lây truyền qua đường hô hấp với tỷ lệ tử vong cao, ngày nay được gọi là bệnh viêm màng phổi bò lây lan (Contagious bovine pleuropneumonia, CBPP), đã ảnh hưởng đến các đàn gia súc trên khắp thế giới.
Mặc dù hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều tiến hành các hoạt động tiêu hủy lớn trong khoảng thời gian từ năm 1870 đến năm 1890 và có thể loại trừ căn bệnh này vào đầu thế kỷ 20, nhưng có thể hợp lý rằng nhân viên tiêu hủy, người xử lý động vật và nông dân có thể đã tiếp xúc với coronavirus- dịch tiết đường hô hấp của trâu, bò bị nhiễm bệnh.
Cùng thời điểm với sự gia tăng của nhóm coronavirus này từ bò sang người có thể xảy ra, một dịch cúm ở người được cho là do cúm đã lan rộng khắp thế giới.
Đại dịch năm 1889-1890 này được đặc trưng bởi một cảm giác chung của bệnh tật và khó chịu, sốt và các triệu chứng rõ rệt của hệ thần kinh trung ương. Thật kỳ lạ, các triệu chứng hệ thần kinh trung ương được quan sát thấy rõ ràng hơn trong đợt dịch này so với các đợt bùng phát cúm khác.
Hơn một triệu trường hợp tử vong có liên quan đến đại dịch này. Một sự gia tăng đáng kể các trường hợp tử vong khi tuổi càng cao đã được báo cáo; điều này có nghĩa là, khi những phát hiện ban đầu về COVID-19 cho thấy, người cao tuổi sẽ bị ảnh hưởng nặng nề hơn.
Mặc dù điều tra của khoa học hiện đại đã liên hệ dịch bệnh này với một loại virus cúm H2N2, nhưng bằng chứng tuyệt đối về mối liên hệ giữa virus cúm này với bệnh dịch chưa bao giờ thu được. Điều này chủ yếu là do thiếu các mẫu mô được bảo quản từ thời kỳ đó.
Vì vậy, nếu vi rút cúm không phải là vi rút gây ra đại dịch 1889-1890, thì có thể có một thủ phạm khác? Vì tổ tiên gần đây nhất của coronavirus ở bò và hCoV-O43 cũng được truy tìm vào khoảng năm 1890, và hCoV-OC43 hiện được biết là có khả năng xâm nhập và tấn công hệ thần kinh, đại dịch 1889-1890 có thể là kết quả của sự nhảy của coronavirus bò sang người?
Nếu câu trả lời là “có”, câu hỏi tiếp theo là: liệu sự thích nghi và đồng tiến hóa trong 130 năm kể từ đại dịch có thể giải thích tại sao CoV-OC43 hiện chỉ gây ra các triệu chứng giống cảm lạnh nhẹ ở người không? Làm thế nào mà loại virus selfsame đã giết chết một triệu người vào những năm 1890 giờ lại gây ra không ít những cái khụt khịt khó chịu?
Đây có thể là một nghiên cứu điển hình quan trọng trong miễn dịch bầy đàn.
Lời kết:
Khi đại dịch COVID-19 xảy ra, song song với việc phát triển vắc xin phòng ngừa và thuốc điều trị COVID-19, những chuỗi thông tin về lịch sử tóm tắt của họ Coronavirus gây bệnh ở người sẽ giúp các nhà khoa học có sự hiểu biết sâu sắc hơn về đặc điểm sinh học và nguồn gốc phát sinh của những virus này. Qua đó, thế giới sẽ sớm có được những biện pháp hiệu quả giúp ngăn chặt sự bùng nổ của Coronavirus trong tương lai.
Hương Giang dịch và tổng hợp
Sinh Học Online