Tại sao tỉ lệ ung thư ở nam giới lại cao hơn nữ giới?
Những đúc kết cá nhân
Hơn một nửa số bệnh nhi bị ung thư não của bác sĩ chuyên khoa thần kinh Josh Rubin, trong suốt 25 năm sự nghiệp của ông, là con trai. Các đồng nghiệp của Rubin, ban đầu gồm những người thuộc Viện Ung thư Dana-Farber ở Boston và trong 16 năm qua có thêm những người từ Trường Đại học Y Washington ở St. Louis, đã nhận thấy một hiện tượng tương tự ở những người lớn mắc bệnh ung thư. Khoảng một thập kỷ trước, vì tò mò liệu đúc kết của mình và đồng nghiệp có được chứng minh bởi dữ liệu thống kê hay không, Rubin đã tìm đến ban đăng ký quốc gia về tỷ lệ mắc và kết quả ung thư. Dữ liệu tiết lộ rằng “quả thực trong nhiều thập kỷ, nhìn chung tỉ lệ ung thư ở nam giới là cao hơn ở nữ giới,” ông nói.
Ảnh đầu trang: u nguyên bào đệm, một loại ung thư não, ở nam giới phổ biến hơn rất nhiều so với nữ giới. Wikipedia common, NEPHRON
Tiên lượng xấu và khả năng sống sót cũng thấp hơn hơn ở nam giới so với phụ nữ ở nhiều loại bệnh ung thư, Rubin đã thấy như vậy. Ngoài những bệnh ung thư mà chỉ phổ biến ở nữ do đặc trưng giải phẫu – ung thư vú, buồng trứng, tử cung và cổ tử cung – chỉ có một số ít dạng ung thư phổ biến hơn ở phụ nữ. Khi nói đến khối u não, “hầu như tất cả” các dạng bệnh này đều phổ biến ở nam giới, Rubin nói.
Xem thống kê của GLOBOCAN 2018 về xu hướng này.
Nhiều nghiên cứu xác nhận nam giới có tỉ lệ ung thư cao hơn
Để hiểu lý do tại sao, ông và các đồng nghiệp đã quyết định thực hiện một vài nghiên cứu sơ bộ trong phòng thí nghiệm. Xử lý các tế bào hình sao (một loại tế bào não) của chuột trên môi trường nuôi cấy bằng các yếu tố kích thích ung thư nguyên bào đệm, nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng các tế bào lấy từ chuột đực biến đổi từ tế bào khỏe mạnh thành tế bào ung thư dễ dàng hơn tế bào từ chuột cái. Các tế bào từ chuột cái dường như đã phục hồi nhanh hơn khi mất chức năng của protein ức chế khối u p53, là protein bị ức chế trong một loạt các bệnh ung thư, bao gồm phần lớn các u nguyên bào thần kinh đệm (J Clin Invest, 124:4123–133, 2014).
Kết quả chỉ ra cho ông ta rằng “các tế bào đực và tế bào cái khác nhau”, và sự khác biệt này có thể đóng một vai trò lớn trong lý do tại sao đàn ông bị ung thư nhiều hơn. Mọi người đánh giá thấp rất nhiều nghiên cứu về sự khác biệt giới tính, bằng cách nói, ‘Ồ, đó chỉ là hệ quả từ sự lưu thông các hormone giới tính thôi,’” ông nói. Nhưng “có rất nhiều quá trình sinh học không phải là hệ quả của hormone giới tính.”
Trong vài năm qua, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu mô tả sự khác biệt về tế bào liên quan đến ung thư giữa nam và nữ. Ví dụ, vào năm 2017, một nhóm tại Trường Y Harvard và Viện hợp tác của Harvard với MIT (Broad Institute) đã xác định một số gen ức chế khối u thoát khỏi bất hoạt nhiễm sắc thể X trong tế bào khối u từ bệnh nhân nữ, do đó biểu hiện cao ở nữ hơn so với ở nam. Mang hai bản sao của nhiễm sắc thể X mang lại cho nữ giới một “liều mạnh gấp đôi” của các chất ức chế khối u, so với liều lượng thấp tạo ra từ một bản sao ở nam giới XY (Nat Genet, 49:10–16, 2017).
“Phụ nữ được bảo vệ nhiều hơn bởi sự biểu hiện gia tăng của các gen ức chế khối u,” theo chuyên gia di truyền học tại Đại học Versailles Saint-Quentin-en-Yvelines ở Pháp. “Và dù một trong hai bản sao (alen) trên một nhiễm sắc thể chịu đột biến vô hiệu hóa, nữ giới vẫn còn một bản sao trên X thứ hai còn hoạt động và do đó duy trì sự bảo vệ chống lại sự tăng sinh tế bào bất thường,” cô nói thêm.
Gen ức chế khối u chỉ là một phần của câu đố. Nhiều bệnh ung thư cũng biểu hiện sự trao đổi chất bất thường – có vẻ cũng khác nhau giữa nam và nữ. Ví dụ, khi Rubin và các đồng nghiệp so sánh biểu hiện gen trong các mẫu mô ung thư thần kinh đệm, từ bệnh nhân nam và nữ, họ thấy rằng đặc trưng biểu hiện gen cho thấy sự chuyển đổi sang glycolysis dự đoán tỉ lệ sống sót khác nhau ở hai giới. Trong khi nam giới có khả năng sống sót thấp hơn một khi dấu chuẩn glycolysis xuất hiện trong tế bào ung thư, tỉ lệ sống sót của nữ giới không liên hệ với glycolysis theo cách tương tự (JCI Insight, 2:e92142, 2017).
Năm ngoái, các nhà nghiên cứu tại Viện Ung thư Dana-Farber và các tổ chức có trụ sở tại New England khác đã xác định các mô hình điều hòa phiên mã tham gia vào con đường chuyển hóa thuốc có liên quan đến khả năng sống sót ở phụ nữ, nhưng không có ở nam giới, khi tất cả họ được điều trị hóa trị ung thư ruột kết (Cancer Res, 78:5538–547, 2018).
Đầu năm nay, trong một phân tích khác về dấu ấn biểu hiện trong u nguyên bào thần kinh đệm ở người, Rubin và cộng sự đã xác định thêm các khuynh hướng giới tính trong các lộ trình nội bào liên quan đến mức độ sống sót của bệnh ung thư. Ở phụ nữ, sự sống sót có liên quan đến mô hình biểu hiện gen trong con đường tín hiệu integrin, trong khi sự sống sót ở nam giới lại tương quan với mô hình biểu hiện gen trong con đường tín hiệu điều hòa chu kỳ tế bào. Những phát hiện này đã phản chiếu kết quả phân tích từ hình ảnh cộng hưởng từ MRI tiêu chuẩn, cho thấy tỷ lệ sống sót của nam giới có thể được dự đoán từ tỷ lệ tăng sinh khối u, trong khi đối với nữ giới cả sự tăng sinh và xâm lấn đều có ý nghĩa dự đoán (Sci Transl Med, 11:eaao5253, 2019).
Chu trình tế bào có các kết nối rõ ràng với sự tăng sinh còn con đường tín hiệu integrin có liên quan đến sự xâm lấn (thông qua các thay đổi về độ bám dính và di chuyển của tế bào, cũng như các chức năng liên quan khác), Rubin lưu ý thêm. “Không có bằng chứng cho thấy những điều này liên quan trực tiếp, nhưng có một sự nhất quán giữa chúng đến nối nghe thật thú vị.”
Các quá trình phân tử khiến nam giới dễ mắc bệnh hơn chỉ mới bắt đầu được hé lộ.
Art Arnold, Đại học California, Los Angeles, nhà sinh lý học đã đi tiên phong trong nghiên cứu về sự khác biệt di truyền và nội tiết tố theo giới tính, khẳng định “Nghiên cứu như của Rubin phản ảnh vai trò của những sai khác trong nội tại tế bào giữa hai giới có thể đóng góp vào thiên hướng ung thư ở nam”. Arnold thừa nhận vai trò của các yếu tố khác vốn đã phổ biến hơn, đó là sự tiếp xúc với môi trường ngoại cảnh và mức độ hormone. Nhưng nghiên cứu của Rubin liên quan đến “một nhóm thứ ba”, gồm những yếu tố đến từ chính bên trong một tế bào.
Hiểu về sự khác biệt giới tính trong sinh học tế bào nói chung sẽ là chìa khóa để phát triển các phương pháp điều trị ung thư tốt hơn, Christine Disteche, nhà di truyền học tại Đại học Washington ở Seattle, người phục vụ trong hội đồng của Tổ chức nghiên cứu về những khác biệt giới tính. Bà lưu ý rằng Viện Y tế Quốc gia (NIH) Mỹ đang tìm kiếm theo hướng này.
Rubin lưu ý rằng các thử nghiệm lâm sàng gộp hai giới lại với nhau sẽ không tìm được phương pháp điều trị tối ưu cho cả hai. “Trong một thời đại mà mọi người thích nói về y học cá thể, [thực tế rằng] cá thể hóa theo phương diện giới tính vẫn chưa phải là một phần của câu chuyện đó thì thật không thể tin nổi.”
(Các nghiên cứu liên quan được trích dẫn ngay trong bài viết)
iceberg (biên tập)
Xem thêm:
Bất cân bằng về giới tình trong việc chọn lựa cộng sự nghiên cứu
Bất hoạt nhiễm sắc thể X và sự bù trừ lượng gen